Notifications
Clear all

Ngưng Thở, Một Hiện Tượng Phổ Biến Trong Cuộc Sống

1 Bài viết
1 Thành viên
1 Reactions
32 Lượt xem
Trần Hữu Dũng Đường số 2 quận Gò Vấp Hồ Chí Minh
(@tranhuudung)
Thành Viên Moderator
Tham gia: 8 tháng trước
Bài viết: 2
Topic starter  

Dẫn Nhập
Đa số chúng ta, nhất là khi chưa quen tập thở, đều rất ngại ngùng cho rằng việc giữ lại hơi thở là một điều nguy hiểm. Biết đâu ngừng thở khi ngực căng lên có thể làm đứt một mạch máu trong phổi hoặc gây hôn mê vì không có đủ không khí cho cơ thể? Đây là một sự lo xa chính đáng vì đã có trường hợp ngừng thở quá mức chịu đựng hoặc không đúng phương pháp nên gây những rối loạn trong cơ thể. 

Thực ra, ngừng thở là một hiện tượng rất phổ biến và bình thường, xảy ra hàng ngày ở mọi nơi trong cuộc ví dụ như: khi ta đưa tay nâng một chậu nước rửa mặt, vác xe đạp từ sân lên thềm nhà, ngẩng đầu lên nghe có tiếng người gọi mình... tức thời ta tự động ngừng thở, lâu hay mau tùy theo đòi hỏi của động tác. 

Nếu ta quan sát một vận động viên ném lao hay nâng tạ,, một cầu thủ sắp “sút” một trái banh, ta sẽ thấy: khi ra một động tác quyết định, đòi hỏi một cố gắng ít nhiều căng thẳng, người ta ngưng thở trước khi “xả hơi” khỏi phối. Cố gắng cơ bắp và công năng phải bỏ ra càng lớn thì hơi thở vào trước đó lại càng sâu và ngừng thở lại càng dài. 

Ngưng Thở Trong Điều Tức Công

Con người chúng ta có hai loại hô hấp:

  • Hô hấp phổi hay ngoại hô hấp: Là quá trình đưa không khí từ ngoài vào phổi, sau đó oxy được trao đổi với máu qua các phế nang. Đồng thời, máu vận chuyển khí CO2 từ tế bào đến phổi và các khí bả ra ngoài.
  • Hô hấp tế bào hay nội hô hấp: Đây mới là hô hấp thực sự, thực hiện ở bên trong mỗi tế bào. Là quá trình chuyển hóa oxy bên trong tế bào để sản sinh năng lượng cần thiết cho các hoạt động sống.

Để kích thích hô hấp bên trong, người xưa đã đưa thêm vào lối thở thông thường hai pha khác nữa, đó là pha ngừng thở.

  • Ngừng thở khi phổi trống rỗng, tức là sau khi thở ra hết, đó là ngừng thở ngoài.
  • Ngừng thở khi phối đầy không khí, tức sau khi thở vào, đó là ngưng thở trong.

1. Ngừng Thở Ngoài

   Trong khi thở ra bình thường (tức không có gắng sức), cơ hoành dần dần nâng lên, trở lại hình vòm và cũng là lúc nó giãn mềm nhất. Vậy ngừng thở sau khi thở ra rất chậm là tạo điều kiện cho cơ hoành được nghỉ ngơi trước khi nó lại tiếp tục căng lên và hạ xuống để làm công việc thở vào. Ngừng thở như vậy với mức độ thời gian vừa phải (tức con người chịu đựng được) là một biện pháp dùng để ổn định hoạt động sinh lý nội tạng và thần kinh. Ngày nay, trong phương pháp thư giãn, người ta cũng thường ứng dụng thở ra kèm ngừng thở ngoài để chóng đạt tới trạng thái tĩnh.

2. Ngừng Thở Trong

   Sau khi thở vào (thường thật sâu) cơ hoành căng lên, hạ xuống, gây một sức nén lên các nội tạng trong khoang bụng, đồng thời phổi cũng căng lên, đẩy không khí vào máu. Ngưng thở ở giai đoạn này phức tạp và có nhiều tác dụng tùy thuộc vào thời gian hãm hơi ngắn hay dài. 

a) Ngưng thở ngắn(3 - 20s) 

   Tác dụng chính của loại này, mà đa số chúng ta đều có thể thực hiện được là cho phép sử dụng tốt hơn không khí hít vào trong phổi. Nếu ta hứng lấy hơi thở ra bình thường và đem phân tích nó, ta sẽ thấy chỉ có 4-6% của 21% oxy trong không khí hít vào được cơ thể hấp thụ. Như thế có nghĩa là hơi thở ra còn chứa khoảng 14 hoặc 15% oxy – một khối lượng đủ để có thể làm hồi sinh một nạn nhân bị ngạt bằng cách “hà hơi”. Khi ta kéo dài thời gian tiếp xúc giữa không khí và màng phế nang, sự trao đổi được thực hiện trong điều kiện tốt nhất (đã nói ở phần thở sâu và thong thả), sự hấp thụ oxy được tăng cường song song với sự thải khí CO2 được triệt để hơn. Như vậy, hô hấp được thực hiện trong điều kiện tối ưu.

b) Ngưng thở dài từ 20 giây trở lên 

   Ngưng thở ở dạng có thể gây ra nhiều phản ứng sinh lý phức tạp. Tạo ra những thay đổi quan trọng trong tuần hoàn máu ngoại vi. Điều đó giải thích tại sao việc tập luyện này phải thực hiện ở một số tư thế nhất định (như tư thế ngồi hoa sen, ngồi trên gót) để hãm bớt tuần hoàn máu xuống đùi vì lợi ích của tim và não. 

  Ngừng thở loại này còn kéo theo nhiều biến đổi quan trọng trong khâu chuyển hóa: xảy ra sự phân hóa các chất đường để có oxy bù cho sự ngừng cung cấp từ ngoài vào (qua hơi thở). Trong lúc ngừng thở như thế, tỉ lệ khí CO2 trong máu tăng, nhiệt độ bên trong có chiều hướng lên cao. Bình thường, sự thông khí ở phổi giúp thải nhiệt điều hòa nhiệt lượng trong cơ thể. Khi ngừng thở, phổi coi như cũng ngừng hoạt động. Do đó, da phải tăng cường hoạt động để làm nhiệm vụ thải nhiệt thay thế. Điều này giải thích tại sao khi ngừng thở, ta có cảm giác nóng và có khi đổ cả mồ hôi.

Kết Luận

Như vậy, kỹ thuật ngừng thở có một tầm quan trọng lớn trong điều tức, và là bước không thể bỏ qua được đối với những ai muốn đi sâu vào rèn luyện khí công. Nhưng tập ngừng thở phải hết sức thận trọng. Những người đang có bệnh tim mạch như suy tim, nhồi máu cơ tim, xơ cứng động mạch, huyết áp quá cao không nên tập.

This topic was modified 2 tháng trước 2 times by Trần Hữu Dũng Đường số 2 quận Gò Vấp Hồ Chí Minh

   
Trích dẫn
Chia sẻ: